- Cột nanh – Nghi môn
Cột nanh là đơn nguyên kiến trúc gốc còn giữ được hình dáng xưa như dưới thời phong kiến. Hai cột nanh trong tư thế nghiêng chụm đầu lại với nhau. Cột nanh hình trụ vuông, cao 5m, chia làm 3 phần đế, thân và đầu. Đế tiết diện vuông, lớn hơn cả 1,10m x 1,10m, cao 0,60m. Thân tiết diện 0,60m x 0,60m, cao 2,40m, xung quanh bề mặt kẻ diềm tinh tế. Phần đầu cao 2m, phình ra chia thành nhiều cấp, phía trên gắn nghê chầu.
- Tắc môn
Qua cột nanh – nghi môn đến tắc môn. Tắc môn vừa mới được tôn tạo gần đây với hai cột hình trụ vuông hai bên. Đầu trụ tạo hình lồng đèn, trên gắn quả hồ lô. Ở giữa tắc môn được trang trí khá công phu với đề tài hổ phù, hoa lá. Hổ phù với trán nhô cao, hai chân có vảy dang ra hai bên trong tư thế giữ tợn chồm về phía trước. Phía trên tắc môn tạo mái xe gắn ngói vảy đất nung đỏ. Trên mái trang trí đề tài lưỡng long triều nguyệt. Rồng đuôi xoắn, lưng có vảy gấp khúc uốn lượn, đầu có bờm ngẩng cao. Mặt nguyệt ở giữa trang trí hình hòn âm dương trong kinh dịch.
- Nhà chờ
Nhà chờ là một đơn nguyên kiến trúc 2 gian, 6 cột vuông (cao 2,50m, tiết diện 0,21m x 0,21m), cao 3,70m, mặt bằng 5,10m x 4,10m. Nhà chơ có kết cấu vì kẻ đơn giản bằng bê tông cốt thép.
Mái nhà chờ được cấu tạo 4 mái, độ dốc không lớn, được đổ bê tông cốt thép, gắn ngói vảy đất nung,
Nhà chờ không có trang trí các đề tài truyền thống, có công năng là nơi đón tiếp, chuẩn bị lễ vật trước khi làm lễ.
Nền nhà chờ hình chữ nhật, mặt nền phẳng.
- Ban thờ ngoài trời
Ban thờ ngoài trời có mặt bằng hình chữ nhật 3,65m x 2,70m được chia thành nhiều cấp có lư hương là nơi dùng để tế lễ ngoài trời nhân các ngày lễ trọng.
- Tòa Tam Tòa
Qua bàn thờ ngoài trời, chúng ta bắt gặp tòa Tam Tòa. Đây là đơn nguyên kiến trúc, nơi đặt bàn thờ thờ Tam Tòa Đại Vương Lý Nhật Quang. Công trình có quy mô khiêm tốn nhưng khá đẹp; cao 3,10m; mặt bằng 2,25m x 2,20m. Mặt trước tuy không có câu đối nhưng được trang trí khá công phù và dày đặc. Phía trên thượng ốc tra trí đề tài lưỡng long triều nguyệt. Phía dưới mái, hai bên trang trí phượng lân chầu cuốn thư ở giữa. Các con vật linh thiêng long, phượng, lân được bàn tay người thợ dân gian tài khoa tạo tác rất tỷ mỹ và có hồn, đập vào mặt chúng ta một hình anh khá sinh động. Các con vật như rồng được gánh các mảnh gốm hoa lam tạo vảy rồng. Mặt phía dưới, hai bên tạo rộng cuốn đuôi xoắn uốn lợn từ trên xuống dưới đối xứng nhau, ở giữa trang trí hổ phù ngậm chữ Thọ cách điệu. Phía trên cửa cũng trang trí rồng chầu mặt nguyệt, dưới cửa tạo chân hài. Ô cửa vuông 0,80m x 0,80m. Hai bên mặt trước tòa Tam Tòa tạo cột quyết hình trụ vuông với chân đế, thân kẻ ô và đầu. Tất cả trang trí tại mặt trước công trinh đều theo luật đối xứng.
Mặt bên đơn nguyên kiến trúc, ở giữa vỉ ruồi tạo ô vuông thông gió, đầu mái tứ phía gắn con kìm nguýnh lạc long thủy quái. Hai bên mặt bên cũng tạo cột trụ vuôn tương tự như ở mặt trước. Mặt sau để trơn.
Mái công trình được làm bằng bê tông cốt thép khá dốc tạo điều kiện cho thoát nước nhanh vào lúc mưa gió. Mặt trên gắn ngói vảy đất nung màu đỏ.
Tòa Tam Tòa là một đơn nguyên nhỏ chỉ có công năng là nơi đặt đồ tế khí như thần vị, bát hương, hạc chầu…thờ Tam Tòa Đại Vương Lý Nhật Quang (xem sơ đồ bộ trị hiện vật tại di tích), còn việc hành lễ phải đứng phía ngoài điều này thực hiện sẽ khó khăn khi thời tiết xấu như mưa, bảo, nắng, gió…Phía trong ban thờ trang trí rồng cuộn mây
- Tòa Càn Hải
Nằm phía bên tả tòa Tam Tòa là tòa Càn Hải. Đây là nơi thờ Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương. Đơn nguyên kiến trúc có kích thước bằng với tòa Tam Tòa. Về cơ bản có hình dáng giống nhau. Cái khác đó là tòa Càn Hải có đôi cầu đối ca ngợi vị thần được thờ tại đây. Một điểm khác biệt nữa là ở dưới mái không có trang trí rồng chầu cuốn thư.
Đội câu đối phía trước tòa Càn Hải như sau:
Nguyên văn chữ Hán
徽 音 高 北 國
盛 德 著 南 天
Phiên âm
Huy âm cao Bắc quốc
Thịnh đức trứ Nam thiên
Dịch nghĩa
Tiếng hay lừng nước Bắc
Đức thịnh rạng trời Nam.
Ở tòa Càn Hải đặt thần vị thờ Đại Can Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương và các đồ tế khí khác như lư hương, hạc chầu…
- Am thờ Phật
Nằm phía bên hữu tòa Tam Tòa là am thờ Phật. Am thờ Phật về cơ bản
giống tòa Tam Tòa về kích thước, hình dáng, hoa văn trang trí. Đơn nguyên kiến trúc này chỉ có sự khác biệt đó là phía trên cuốn thư đuôi mái có trang trí bánh xe pháp luân của nhà Phật với ý nghĩa: bánh xe pháp luân chuyển động không ngừng, giáo lý của Đức Phật phát triển không ngừng, hợp thời, hợp cơ, hợp lý, nhưng công năng vẫn là di chuyển, đưa chúng sinh từ tối đến sáng, từ khổ đến vui, từ thấp lên cao, từ vô minh đến giác ngộ, từ địa ngục tới niết bàn; bánh xe pháp luân tới đâu thì cỏ gai, sỏi đá bị nghiền nát tới đó, mê lầm phiền não cũng bị dẹp tan; bánh xe pháp luân chỉ tiến thẳng lên phía trước, không bao giờ thoái lui.
Am thờ Phật do là công trình nhỏ nên chỉ là không gian để thờ Phật. Hiện tại, đơn nguyên kiến trúc là nơi đặt 6 pho tượng, trong đó có 3 pho tượng Tam thế và 3 pho tượng quan viên. Đó là những cổ vật quý cần được tu sửa và bảo quản.
- Tòa thờ Bản Thổ
Tòa thờ Bản Thổ nằm bên hữu am thờ Phật. Đơn nguyên kiến trúc cao 2,60m, mặt bằng 2m x 1,80m, được xây bịt kín xung quanh vời tường khá dày 0,35m; mái dốc, mặt trước trổ cửa rộng 0,80m, cao 0,90m.
Mặt trước được trang trí khá đơn giản. Từ phía trước nhìn vào, chúng ta thấy trên thượng ốc được trang trí 2 con kìm nguýnh lạc long thủy quái ở đầu đốc. Hai bên mặt trước tạo cột quyết trụ vuông, được kẻ các đường diềm bảo quanh tạo cho không gian trở nên thanh thoát.
Mái được cấu tạo bằng vôi vữa. Mái dốc, không có sự tham gia của vật liệu gỗ để hình thành nên hệ mái. Mái gắn ngói vảy đất nung màu đỏ.
- Tòa thờ thần Nông
Tòa thờ thần Nông nằm phía tả của tòa Tam Tòa, với quy mô, hình dáng, kích thước như tòa thờ Bản Thổ. Tuy nhiên có cái khác biệt là đơn nguyên kiến trúc này được cây sanh bao bọc phần lớn mặt trước và mặt bên của di tích. Di tích có công năng là nơi đặt bàn thờ thờ thần Nông.
Nói tóm lại, chúng ta thấy các đơn nguyên kiến trúc của miếu Tam Tòa hầu hết có quy mô nhỏ của một công trình thờ tự mà người dân gọi là miếu, tức là ngôi đền nhỏ. Tuy nhiên, các công trình của di tích nhiều, lại được phân bố rộng rãi trên một diện tích lớn và làm nơi thờ nhiều vị thần, Phật trong đó phần chủ đạo là thờ Tam Tòa Đại Vương, Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, vị hoàng từ thứ 8 của vua Lý Thái Tổ nên mới có tên gọi là miếu Tam Tòa. Các công trình hiện tại, trừ nhà chờ và tắc môn, các đơn nguyên còn lại đều được xây dựng dưới thời phong kiến.
VI. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HÓA, KHOA HỌC VÀ THẨM MỸ CỦA DI TÍCH
- Giá trị lịch sử
Miếu Tam Tòa là di tích lịch sử - văn hóa có từ lâu đời hàng trăm năm của xã Cẩm Lạc, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Di tích chứng kiến biết bao thăng trầm của quê hương, xứ sở, đã đi vào ký ức của biết bao thế hệ người dân địa phương. Di tích là nơi hỗn dung về mặt văn hóa ghi dấu ấn cho nhiều tín ngưỡng và tôn giáo. Tuy nhiên, đây là cơ sở thờ tự chính Uy Minh vương Lý Nhật Quang, vị Hoàng tử thứ 8 của vua Lý Thái Tổ được cử vào trấn thủ Nghệ An (bao gồm Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay), nhằm vỗ về nhân dân, dạy giỗ nhân dân cách sinh kế, ổn định tình hình chính trị - xã hội ở địa phương, giữ yên bờ cõi, biên viễn phía nam của quốc gia Đại Việt thời bấy giờ. Những di tích gốc hiện nay góp phần giúp vào việc nghiên cứu tầm ảnh hưởng của Uy Minh vương Lý Nhật Quang trong lịch sử tại khu vực phía nam Hà Tĩnh.
- Giá trị văn hóa
Về giá trị văn hóa, di tích lịch sử - văn hóa miếu Tam Tòa có sự hỗn dung văn hóa trong việc thờ tự. Nó quy tụ nhiều tín ngưỡng và tôn giáo khác nhau. Ngoài việc thờ Uy Minh vương Lý Nhật Quang, di tích còn là nơi thờ Phật, thờ thần Nông và Bản Thổ. Di tích là một trung tâm tín ngưỡng, tôn giáo quan trọng của địa phương. Những tín ngưỡng, tôn giáo này được người dân tự nguyện đón nhận một cách tự nhiên mà không có sự xung khắc giữa chúng với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, hay một niềm tin nào khác ở đây. Vì vậy, di tích góp phần tạo nên sự phong phú về văn hóa tâm linh đáp ứng nhu cầu đối với người dân địa phương.
3. Giá trị khoa học
Di tích lịch sử - văn hóa miếu Tam Tòa còn lưu giữ được nhiều di tích gốc có giá trị như: cột nanh – nghi môn, tòa Tam Tòa, tòa Càn Hải, am thờ Phật, tòa thờ Bản Thổ, thần Nông. Đây là nguồn sử liệu rất quan trọng giúp các nhà sử học, văn hóa, bảo tàng… nghiên cứu quá trình mở mang bờ cõi, tín ngưỡng dân gian, tôn giáo, thuần phong mỹ tục, quan niệm thẩm mỹ, lối sống…của người Việt bản địa vùng đất này.
VII. THỰC TRẠNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA DI TÍCH
Miếu Tam Tòa là di tích lịch sử - văn hóa được người dân xây dựng từ lâu đời. Qua nhiều lần tu bổ tôn tạo, ngôi miếu mới có quy mô, dáng vẻ như hiện nay. Tuy nhiên các thời điểm tu bổ tôn tạo dưới thời phong kiến hiện nay chưa biết chính xác. Còn đến năm 2010, với việc xã hội hóa trong việc bảo vệ, tu bổ, tôn tạo và phát huy di sản, chính quyền địa phương đã huy động từ nhiều nguồn khác nhau đã tôn tạo lại khang trang và thâm nghiêm như bây giờ.
Hiện, miếu Tam Tòa có ban lễ nghi tự nguyện đóng góp công sức quét dọn, chỉnh trang khuôn viên hàng ngày và phục vụ tế lễ nhân các ngày lễ trọng. Nhờ đó mà ngôi miếu ngày càng xanh sạch đẹp. Ngoài ra, ban lễ nghi còn có chức năng giới thiệu các giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đến với khách tham quan thập phương, nhân dân và các nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu về di tích.